Bộ Tài chính: Năm 2014 Việt Nam dành 141,5 nghìn tỷ đồng để trả nợ

In trang

Theo bà Victoria Kwakwa - Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Ngân hàng Thế giới sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật cho Bộ Tài chính Việt Nam nâng cao hiệu quả quản lý nợ công nhằm bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia.

 Đây là thông tin được đưa ra tại Hội thảo đánh giá Luật Quản lý nợ công sau 5 năm triển khai thực hiện do Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài Chính) đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới tổ chức.

Theo đánh giá của Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương Chí Trung, việc đánh giá Luật Quản lý nợ công sau 5 năm triển khai thực hiện là rất quan trọng đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới.

Còn ông Trương Hùng Long - Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết, Luật Quản lý nợ công đã tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ về quản lý nợ công; từng bước công khai, minh bạch hoạt động vay, trả nợ công; tạo môi trường pháp lý quan trọng cho việc huy động nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh đó, phân bổ, sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả. Kết quả là, giai đoạn 2010 - 2015, tổng vốn vay Chính phủ đưa vào cân đối NSNN cho đầu tư phát triển đạt trên 1.400 nghìn tỷ đồng, trung bình đạt 7% GDP, tăng 14%/năm.

Đặc biệt, thực hiện trả nợ đúng nghĩa vụ nợ đến hạn hàng năm, góp phần tăng cường hệ số tín nhiệm quốc gia. Ước năm 2014 trả nợ Chính phủ là 141.520 tỷ đồng; trả nợ trực tiếp của Chính phủ/Tổng thu NSNN là 13.8% 

Quan trọng là, chỉ tiêu về nợ công nằm trong giới hạn quy định. Cụ thể, nợ công cuối năm 2014 ở mức 2.347 nghìn tỷ đồng, bằng 59,6% GDP năm 2014 và dự kiến cuối năm 2015 khoảng 62.3% GDP. Mức nợ công này vẫn nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép không quá 65% GDP.

Ngoài ra, Luật Quản lý nợ công thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu trong nước. Theo đó, quy mô của thị trường trái phiếu tăng từ mức 2,8% GDP năm 2001 lên mức 19% GDP năm 2011 và 21,2% GDP năm 2014. Riêng thị trường trái phiếu Chính phủ và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh chiếm khoảng 19% GDP năm 2014.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, ông Long cũng chỉ ra một số vấn đề đang và sẽ đặt ra: phạm vi nợ công chưa hài hòa với thông lệ quốc tế; chồng chéo giữa các khoản nợ; về phạm vi nợ công; mục tiêu, trần nợ công; nghiệp vụ quản lý nợ chủ động; quan hệ giữa quản lý nợ công và chính sách tài khóa…

Do đó, để giải quyết các vấn đề này, ông Long cho rằng, cần hoàn thiện chính sách quản lý nợ công nhằm tăng cường huy động vốn cho cân đối NSNN và đàu tư phát triển kinh tế - xã hội; Làm rõ hơn quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan lập pháp, hành pháp và trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, DN và đơn vị sử dụng nợ công; Giảm thiểu tối đa các nội dung cần hướng dẫn để thực hiện sau khi ban hành luật mới.

World bank sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật để Việt Nam nâng cao hiệu quả quản lý nợ công

Theo bà Victoria Kwakwa - Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng, sau 5 năm triển khai thực hiện Luật Quản lý nợ công ở Việt Nam cần phải tham khảo, vận dụng tốt kinh nghiệm quốc tế từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế; tăng cường chính sách tài khóa bảo đảm quản lý nợ công hiệu quả. "Ngân hàng Thế gới sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật cho Bộ Tài Chính Việt NAm nâng coa hiệu quả quản lý nợ công nhằm bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia”- Bà Kwakwa nói.

Còn theo ông Thomas Magunusson - Chuyên gia tư vấn của Ngân hàng Thế giới, khi Việt Nam đang hướng tới môi trường theo cơ chế thị trường thì việc phải vay nợ nhiều hơn theo các điều khoản thương mại mở ra nhiều phương án vay nợ và nhiều công cụ tài chính.

Trong môi trường như thế, điều kiện chính là phải có chiến lược được lập trên cơ sở các phương án đánh đổi chi phí/rủi ro hợp lý nhằm định hướng cho các quyết định vay nợ và các giao dịch thị trường khác. Hay thiếu chiến lược chính thức có thể dễ dàng dẫn tới những lựa chọn không tốt và làm tăng rủi ro. Vì vậy, Việt Nam cần hướng tới quy trình quản trị tốt nhằm định hướng cho việc vay nợ của Chính phủ.

Theo đó, cần có tầm nhìn dài hạn, xác định các mục tiêu quản lý nợ rõ ràng; có tính chiến lược trung hạn; có tính chiến thuật ngắn hạn; có phương thức triển khai quản lý nợ chủ động thực hiện các giao dịch thị trường khác trong phạm vi các tham số đó.